
VOV4.VN - Trẻ em ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số đang chịu nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương và thiếu tự tin, bởi cuộc sống của các em còn nhiều chữ “không”: không được chăm sóc sức khỏe thường xuyên, bữa ăn không đủ dinh dưỡng, không có chỗ vui chơi giải trí, không đủ đồ dùng học tập...
Ở những vùng kinh tế kém phát triển, đời sống khó khăn, hầu hết cha mẹ phải dành thời gian cho việc lao động kiếm tiền, bởi vậy các em nhỏ không nhận được sự quan tâm chăm sóc đầy đủ. Trẻ từ sơ sinh đến mầm non có thể trạng yếu, tự ti, nhút nhát.
Năm 2016, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu giáo dục mầm non tổ chức nghiên cứu thực địa về công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Chương trình tập trung nghiên cứu, khảo sát 5 dân tộc: Mông, Dao, Rục, Bru - Vân Kiều và Pa Cô tại các tỉnh Lai Châu, Quảng Bình và Quảng Trị.
Bé gái dân tộc Mông sớm biết thêu thùa
Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Thị Mỹ Trinh - Viện khoa học giáo dục Việt Nam, trưởng nhóm nghiên cứu, nói rằng nguy cơ thiếu hụt dinh dưỡng đối với nhóm trẻ này là nỗi lo hàng đầu. Trước hết là việc cho ăn dặm sớm. Nếu người mẹ mà mất sữa, thì đứa trẻ sinh ra được nhai cơm cho ăn. Với người Vân Kiều ở Quảng Bình thì khoảng 3 ngày tuổi, việc nhai cơm cho cháu ăn là chuyện bình thường. Những người mẹ đủ sữa cũng cho ăn con dặm sớm, khi mới khoảng 3, 4 tháng tuổi. Chế độ ăn dặm thì không đảm bảo dinh dưỡng, chỉ là nước cháo loãng hoặc cháo loãng với muối hoặc với đường. Khi các cháu lớn lên một chút nữa thì cũng chỉ là cháo với rau, muối. Người Mông thì cho ăn cháo với gừng, còn Bru-Vân kiều còn cho ăn thêm ớt cay, tập cho trẻ ăn dần.
Bà Nguyễn Thị Mỹ Trinh cũng nói rằng bữa ăn tạm gọi là đủ chất dinh dưỡng là bữa ăn trưa ở trường, nhưng đó là với những trẻ học mầm non được ăn bán trú. Còn buổi sáng mẹ nấu sẵn cơm thì hầu như trẻ không ăn. Buổi tối, thường mẹ làm về rất muộn, chế độ ăn không có gì ngoài canh rau và một ít cá bắt được dưới suối, rất ít khi có thịt.
Ngoài chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, trẻ em người dân tộc thiểu số còn bị hạn chế trong giao tiếp với người thân trong gia đình. Điều đó lý giải vì sao trẻ thường chậm phát triển về ngôn ngữ, nhút nhát khi giao tiếp với người lạ. Người lớn ít giao tiếp trò chuyện với trẻ. Họ cho rằng chưa biết nói thì không biết gì, trẻ không cảm nhận được cái nên không cần phải nói chuyện với trẻ. Khi trẻ biết đi và biết nói, thường từ 1-2 tuổi, người lớn lại coi như bé đã lớn rồi, lại để đứa trẻ tự đáp ứng nhu cầu của bản thân. Chính điều này tạo ra yếu tố kéo tụt sự thúc đẩy phát triển của trẻ.
Không chỉ thiếu cái ăn cái mặc, trẻ em dân tộc thiểu số còn thiếu thốn điều kiện vật chất, sách vở, đồ dùng học tập và thiếu cả thời gian để học. Đặc biệt là trẻ em gái gần như không có thời gian để học hành. Trách nhiệm trông em thuộc về chị. Thời gian mùa vụ, chị còn phải thay mẹ làm tất cả những việc trong gia đình. Việc trẻ em gái 8-10 tuổi làm thành thục việc gia đình phổ biến ở các dân tộc này.
Ngoài những rào cản về kinh tế, con đường đến trường của trẻ em dân tộc thiểu số khó khăn bởi chính tư duy của người lớn tuổi. Anh Hoàng Văn Nam, tình nguyện viên chăm sóc giáo dục trẻ em thôn Bản Chè 1, xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, nói rằng, ở thôn này vẫn còn tình trạng bố mẹ không cho con ăn sáng trước khi đi học vì nghĩ rằng bụng no thì khó học chữ.
Trong những năm gần đây, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại các tỉnh vùng cao, miền núi đã có nhiều thay đổi. Trẻ em dân tộc thiểu số được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, phần lớn kinh tế khó khăn vẫn là tình trạng phổ biến nên vẫn còn nhiều trẻ em dân tộc thiệt thòi, thiếu hụt nhiều điều kiện phát triển.
Tính đến 2015, cả nước có khoảng 10 triệu trẻ em dưới 6 tuổi; Trẻ em dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% (3500 em). Khoảng hơn 2 triệu trẻ em sống trong các hộ gia đình nghèo; 22 ngàn em được chăm sóc trong các cơ sở bảo trợ xã hội; 1.5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. (Số liệu của Bộ lao động- Thương binh và Xã hội)
Bài và ảnh: Hoài Thu/VOV4
Viết bình luận