
Người Hà Nhì có cả một “hệ thống" những điều kiêng cữ quanh chuyện sinh đẻ, để bảo vệ đứa trẻ từ khi sinh ra. Như: trẻ sơ sinh kiêng bế ra ngoài, kiêng gặp người lạ; kiêng đặt tên con trùng với tên người cao tuổi, người đã mất trong gia đình; kiêng dùng các từ chỉ đấng siêu nhiên để đặt tên con (như Hoàng, Thiên, Địa...) phần vì giữ lễ, phần vì sợ trẻ nhỏ hay ốm đau, chết yểu...
Tương tự như vậy, tục kiêng xoa đầu trẻ nhỏ, theo Th.s Ngô Thu Thảo, khoa Văn-Xã hội, ĐH Thái Nguyên, có thể giải thích theo hai ý nghĩa: Kiêng xoa đầu trẻ để tránh cho trẻ nhỏ bị xiêu hồn bạt vía. Dân gian quan niệm vía chính thường cư ngụ trên đỉnh đầu và hay đi lạc nếu bị ai đó chạm đến; Hai là, bảo vệ phần thóp còn chưa kín vốn rất dễ bị tổn thương trên đầu em bé.
Người phụ nữ Hà Nhì khi mang thai sẽ kiêng nhuộm chàm. Ảnh: baomoi.com
Phụ nữ người Hà Nhì khi mang thai kiêng nhuộm chàm vì sợ con đẻ ra sẽ đen; không sử dụng thuốc, kể cả lá thuốc truyền thống; không ăn các món có nguồn gốc từ động vật đang chửa hay các con vật trước lúc mổ thịt không được cắt tiết. Người Hà Nhì quan niệm, nếu ăn các con vật ấy, con cái sau này sẽ chết yểu. Trong đời sống hàng ngày, thai phụ Hà Nhì kiêng không đốt củi đằng ngọn trước vì sợ sau này con sẽ ra ngược.
Đặc biệt, suốt thời gian 9 tháng 10 ngày, không chỉ có người mẹ phải kiêng kị mà người cha đứa trẻ cũng phải tránh không được làm điếu cày và máng lợn, chú ý ngay cả khi lên rừng kiếm củi.
Th.s Ngô Thu Thảo giải thích: Muốn có chiếc điếu cày, người ta phải đẽo ống tre làm tầm điếu (hay còn gọi là than điếu), sau đó phải đục lỗ để tra nõ vào. Động tác tra nõ tựa như bịt đầu ra của đứa con. Vì thế, đây là việc làm cấm kị xuất phát từ tư duy liên tưởng. Người Hà Nhì cho rằng, nếu vợ có thai mà chồng làm điếu, sau sẽ khó đẻ, thậm chí cả sản phụ và em bé đều có thể tử vong. Thứ hai, chiếc máng lợn của người Hà Nhì được làm bằng cách đẽo cây gỗ, hình dáng tựa như chiếc quan tài thu nhỏ, nên người đàn ông có vợ sắp sinh kiêng làm với suy nghĩ làm máng lợn cũng giống như làm quan tài cho đứa con của mình. Cũng trong thời gian vợ có thai, nếu đi rừng kiếm củi thì người chồng chỉ được lấy một loại và phải là cây thẳng. Nếu lấy nhiều loại củi thì vợ không chỉ khó sinh mà con còn khó nuôi, lấy củi không thẳng thì đứa trẻ dễ bị tật hoặc lâu biết đi.
Người cha còn phải kiêng sang nhà hàng xóm 3 ngày, nếu đứa bé mới sinh là con trai, nếu là con gái phải kiêng tới bảy ngày. Vi phạm nguyên tắc trên, người cha phải nộp cho gia chủ một con lợn 50 cân theo quy ước của dân bản.
Khi gia đình có người sinh nở, người nhà báo hiệu bằng chiếc nón úp trên cọc ở trước cửa để tránh cho người lạ vào nhà. Hoặc treo cành lá có gai lên chiếc cọc theo nguyên tắc: sinh con gái thì treo bên phải, sinh con trai thì treo bên trái. Thời gian phải kiêng kị là 13 ngày. Nếu ai không để ý mà bước vào thì phải áp dụng thuật trừ rủi ro cho đứa trẻ: Người khách để vào tay đứa trẻ một đồng tiền và lấy sợi dây 2 màu đỏ trắng buộc vào tay đứa trẻ. Làm xong hai việc trên, khách sẽ đặt cho trẻ một cái tên tốt với mong muốn sau này đứa trẻ sẽ khỏe và ngoan.
Trẻ con dân tộc Hà Nhì. Ảnh: baomoi.com
Trong 12 ngày đầu sau khi sinh, người Hà Nhì kiêng không mặc quần áo cho bé, chỉ quấn những lớp khăn mỏng để em bé không bị cảm lạnh. Đến ngày thứ 13, em bé được mặc quần áo và ra ngoài lần đầu tiên. Vào ngày hôm đó, người mẹ mang cái xô xách nước, một đứa trẻ lớn cõng em bé bằng chiếc địu màu trắng do bà ngoại làm tặng, một trẻ khác mang 2 gói lá chuối bọc cơm nếp và quả trứng đã luộc, ra thẳng nguồn nước thiêng đầu làng.
Với người Hà Nhì, suối nước là chỗ dựa tinh thần của cả cộng đồng. Nước đầu nguồn bao giờ cũng trong vắt, và họ dành sự trong trẻo ấy cho đứa trẻ mới sinh. Ông Chu Thò Sé, ở thôn Lao Chải, Y Tý, Bát Xát, Lào Cai, lý giải: Tổ tiên của người Hà Nhì đã coi trọng trẻ con như nguồn nước. Nếu không có nước thì không có bản làng, không có trẻ con cũng không có cuộc sống ấm no.
Ra đến nơi, người bố thắp hương trên ban thờ đầu nguồn nước. Sau khi cầu xin thần linh, người mẹ bóc một ít lòng đỏ trứng bôi vào gót chân em bé để bé không bị xước xát, bệnh tật. Người mẹ lấy một ít nước quệt nhẹ lên má bé, nói vài câu đại ý cho bé làm quen với thần nước, xin thần phù hộ bé mạnh khỏe, không ốm đau. Hai em bé lớn thì cầm gói cơm chia cho tất cả trẻ con xung quanh. Kể từ lúc đó, em bé có thể được mọi người ẵm ra ngoài.
Thu Hòa/VOV4
Viết bình luận